top of page

Lĩnh hội nhanh một đoạn đời dài

BUDD SCHULBERG

Đôi chân cô bé có dáng hình thật đẹp, thật vững vàng. Khi em bắt tréo chân và mỉm cười với một sự chắc chắn vốn luôn có thể làm sáng bừng lòng anh, anh nghĩ cô bé là người độc nhất trên đời này không nhuốm chút bụi trần mà anh biết. Không phải giống như đời thật, mà là một phiên bản tốt hơn của đời thật, như một tác phẩm nghệ thuật, đường nét tinh tế của em được tạc ra từ một khối hình cứng chắc. Hình tượng tạc từ gỗ đến với anh thật dễ dàng bởi tông màu vàng sáng ấy của em luôn khiến anh liên tưởng đến gỗ phong được đánh bóng lên màu lúa mì vàng óng. Ngay từ khoảnh khắc anh đứng lặng mình kinh diễm trước tấm cửa kính nơi anh được thưởng lãm cô bé lần đầu tiên, bóng hình của em làm anh lâm vào trầm tư. Vài người trong chúng ta cũng xuất hiện trong những sắc màu đẹp đẽ, hoặc tính chất đẹp đẽ, nhưng rồi thế nào cũng sẽ có những điểm bất toàn. Cứ soi chiếu bản thân thật kỹ rồi ta sẽ nhận ra bản thân đã bị hư hại bởi môi trường. Đôi khi chỉ là lòng ta bị cắt cứa bởi những giễu cợt chua cay. Đôi khi ta nứt vỡ bởi những ảo mộng không thành. Hoặc, ta đứt đoạn phân ly trong sợ hãi hoảng loạn.

Khi em bắt đầu nói, anh nghiêng người về phía trước, hào hứng đón lấy những từ ngữ như tiếng nhạc, sự thâm thúy được tỏ bày trong những cụm từ êm tai đồng thời cũng thách thức trí não.

“Ai cũng thích con hết,” cô bé nói. “Hết thảy mọi người luôn.”

Đấy không phải là do cô bé tự phụ. Đơn giản chỉ là em mới ba tuổi. Chẳng ai có thể trao em những lời hứa thì thầm ngọt ngào rồi vào sáng hôm sau có thể biến chúng thành lời nói dối xấu xí và lạnh lẽo như đống bát đĩa chưa rửa từ bữa tối qua còn nằm trong bồn. Em chưa bao giờ phải nghe một nhà độc tài ru ngủ cả đất nước mình bằng những bản hát đưa nôi yên ả để rồi ngày hôm sau sẽ khuấy động nó bằng bom rơi đạn lạc. Cô bé không bị lừa dối. Cha em thành kính lùa những ngón tay qua làn tóc vàng mềm mại của em. Con bé thật trong trắng, anh nghĩ, đây đúng là sự thánh thiện đích thực, đoạn thời gian ngắn ngủi trong đời trước khi tâm trí hay cơ thể ta bị vẩn đục bởi bội bạc lọc lừa.

Giáng sinh đang đến rất gần và cô bé đang ngồi trên chiếc ghế con, đôi môi nhỏ mím chặt trong sự tập trung, nắn nót viết lá thư vào phút chót gửi cho Santa Claus. Từ ngữ được viết ra bằng loại ngôn ngữ do chính em sáng tạo, nhưng được diễn dịch một cách sốt sắng trong lúc em viết.

Ông Santa mến, cháu là cô bé rất ngoan và ai cũng thích cháu. Nên ông đừng quên mang cho cháu một bộ đĩa nha, một em búp bê sẽ đi ngủ cùng cháu. và cùng thức dậy nữa, và một cái “máy giặt. cháu cần máy giặt vì chiếc đầm của Raggedy Ann rất là dơ.

Sau khi cô bé viết xong bức thơ, gấp lại, và nhờ anh viết địa chỉ xong, anh tung bé con lên không trung, bắt lấy rồi lại tung lên, lắng nghe tiếng con bé cười nắc nẻ. “Cao nữa cha ơi, cao nữa đi,” cô bé hướng dẫn. Tâm trí anh trìu mến bao bọc con bé: Bé con là một hòn đảo trong trắng trong thế giới nhơ nhuốc này. Cô bé là hạt mầm thánh thiện được chắp cánh bay qua miền hoang địa. Phải chi em được cắm rễ ở đâu đó. Phải chi em được lớn lên mãi theo cách như thế này, trong sáng và thánh thiện.

“Cha ơi cho con xuống,” cô bé cất tiếng khi cảm thấy mình đã nuông chiều cha mình đủ rồi, “Con phải gửi thư cho ông Santa.”

“Nhưng mà không phải chiều nay con đã gặp ông ấy rồi sao?” anh hỏi. “Chẳng phải con đã hỏi xin ông những món con thích rồi à? Mẹ kể đã đưa con đi gặp ông, con còn ngồi trong lòng ông nữa.”

“Con chỉ muốn nhắc ông thôi,” cô bé bảo. “Còn có nhiều bạn khác nữa lắm.”

Anh nhịn xuống cảm giác muốn bật cười, bởi cô bé không phải là điều gì đó mà ta có thể cười cợt. Ý nghĩ rằng một tràng cười có thể làm tổn thương cảm giác của em, có thể cứa vào em một vết tì phá tan sự hoàn mỹ, ý nghĩ ấy ám ảnh anh mãi.

“Cha không bắt được con đâu,” cô bé hát vang, và cuộc rượt đuổi như cũ bắt đầu, theo cách thức vô cùng quen thuộc với hai cha con, giống cả những tiếng cười ngặt nghẽo lẫn những la hét của sự tức giận giả vờ với kết quả tất yếu. Hai vòng quanh bàn ăn là đường đua được thiết lập sẵn trước khi anh bắt được bé con trong bếp. Anh bế bổng cô bé từ dưới đất lên và đặt em lên chiếc bàn bếp. Cô bé đứng ở mép bàn, giữ thăng bằng đầy tự tin, sẵn sàng cho trò chơi tiếp theo của hai cha con. Nhưng đây không phải một trò lao lực đầy tiếng cười như trò chơi “keng” hay như chơi trốn tìm. Trò chơi này là một nghi lễ. Chiếc bàn chỉ cao hơn cô bé vài chục centimet. “Nhảy nào nhảy nào, cha sẽ đỡ con,” anh sẽ khích lệ cô bé như thế. Họ sẽ đếm cùng nhau, một, hai, và tới ba thì cô bé sẽ nhảy vào khoảng không. Anh thậm chí không giơ cánh tay lên cho đến tích tắc khả dĩ cuối cùng. Nhưng anh sẽ luôn chụp được cô bé. Họ đã chơi trò này hơn một năm và trải nghiệm ấy chưa bao giờ làm họ thôi phấn khích. Con xem, cha luôn ở đây để đỡ khi con rơi, trò chơi gửi gắm cho hai cha con thông điệp ấy. Theo mỗi lần cô bé nhảy xuống, em càng vững tin và sợi dây kết nối càng bền chặt.

Hai cha con vừa thực hiện xong nghi thức ấy thì trước cửa xuất hiện người phụ nữ hàng xóm với cậu con trai năm tuổi của cô, Billy. “Xin chào anh Steevers,” cô nói. “Anh có phiền không nếu cháu Bill ở đây một lát trong lúc tôi đi chợ?”

“Ồ không, dĩ nhiên rồi, thật vui khi cháu ở đây chơi,” anh nói trong khi vò nghịch tóc Billy. “Billy, sao rồi?”

Nhưng lòng anh không thực sự nghĩ vậy. Đây là buổi chiều duy nhất trong tuần anh được ở cùng cô bé, và anh không ưa sự xâm nhập này. Và cũng vào ngay lúc ấy, anh hoàn toàn tin tưởng rằng Billy rồi sẽ lớn lên trở thành một kiểu đàn ông mà anh đặc biệt căm ghét. Một gã trai bảnh tỏn cường tráng, cao lớn so với tuổi của mình, một gã trai hướng ngoại kiêu căng, vô tâm, thâm hiểm với sự hung hăng không hề trong sáng. Mình có thể thấy cái loại đó say xỉn, mặt đỏ lừ kéo xé áo váy mấy đứa con gái ở Legion Conventions, anh Steevers nghĩ vậy. Và tệ hơn cả là, con gái anh dường như không nhìn thấy những khiếm khuyết đó của Billy. Khoảnh khắc nhìn thấy cậu ta, cô bé quên phắt đi trò chơi của họ.

“Chào, anh Billy,” cô bé hô lên rồi chạy tới ôm chầm cậu.

“Anh muốn ăn bánh cookie,” Billy bảo.

“Ô phải rồi, bánh cookie; và mấy chiếc bánh hình thú nữa cha ơi.”

Cô bé khoác lên mình tấm vai chủ nhà, và khi anh đi đến tủ bánh, anh có thể nghe tiếng cười thanh lảnh như tiếng nhạc của bé con tương phản với tiếng cười hô hố trầm đục nhưng non nớt của Billy.

Tay cầm bánh hình thú, anh mở tung cánh cửa phòng ăn, đúng lúc để nhìn thấy cảnh tượng.

Cô bé giữ thăng bằng ở mép bàn. Billy đứng cạnh bên dưới, như lúc cậu thấy cha của em làm. “Nhảy đi rồi anh sẽ đỡ em,” cậu ta nói.

Mỉm cười, tự tin và không một vết tì, cô bé nhảy. Nhưng không có bàn tay nào giang ra để đón lấy cú bay của em. Với một nét cười hằn học trên mặt, Billy lùi lại và nhìn cô bé rơi xuống.

Đứng quan sát từ hành lang, cha cô bé cảm nhận được cơn kinh hoàng đang chiếm lấy mình như cái khoảnh khắc anh nhìn thấy tay nhảy dù bị nghiền nát như con bọ trên tấm kính chắn gió, khi dù của anh không bung ra được. Cô bé con nằm đó, òa khóc, đau đớn cơ thể không nhiều bằng nỗi đau khi vỡ mộng. Anh chạy tới bồng em lên, và anh mãi mãi không thể nào quên được vẻ mặt của cô bé. Một biểu cảm mới, không còn trong sáng như trẻ thơ, không còn thánh khiết, vẻ mặt đã bị cay đắng nhuộm màu.

“Em ghét anh, em ghét anh,” cô bé thét với Billy trong tiếng nức nở không dứt.

Chậc, giờ thì con bé đã biết rồi, cha cô bé nghĩ, đã biết về thực tế cuộc sống. Giờ con bé đã trở thành một trong số chúng ta. Giờ con bé đã biết được sợ hãi và lừa dối. Giờ con bé phải được học cách thay thế ngây thơ bằng can đảm.

Cô bé vẫn gào thét. Anh hiểu những giọt nước mắt này cũng tự nhiên và cần thiết như lúc cô bé cất tiếng khóc chào đời, nhưng anh vẫn không thể hoàn toàn vượt qua được nỗi buồn đau nặng nề đang phong kín anh lúc này. Sau cùng, khi cất lời, giọng anh lại khe khắt hơn anh đã định, “Thôi nào con, nín đi nào. Đứng dậy và hành xử như người lớn xem nào. Ngã tí tẹo thế này không làm đau con được đâu.”

HẾT.

---

Bản dịch thuộc về Riley T.

Original story "A short digest to a long novel" by Budd Schulberg

© 2018 by Riley Tran. Proudly created with Wix.com

bottom of page